Khi đi làm, bà đã hỏi công ty về chế độ nghỉ dưỡng sức thì được trả lời, bà không đủ điều kiện hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức. Theo bà Thủy, việc bà đi làm sớm là do yêu cầu của công ty và thỏa thuận của hai bên. Vậy công ty giải thích trường hợp của bà như vậy có đúng theo quy định không? Câu hỏi của bà Thủy, luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời như sau: Khoản 1 và khoản 4, Điều 157 Bộ Luật Lao động (BLLĐ) quy định: Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng. Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng. Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động và được người sử dụng lao động đồng ý, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 4 tháng. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH).
Khi đi làm, bà đã hỏi công ty về chế độ nghỉ dưỡng sức thì được trả lời, bà không đủ điều kiện hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức. Theo bà Thủy, việc bà đi làm sớm là do yêu cầu của công ty và thỏa thuận của hai bên. Vậy công ty giải thích trường hợp của bà như vậy có đúng theo quy định không? Câu hỏi của bà Thủy, luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời như sau: Khoản 1 và khoản 4, Điều 157 Bộ Luật Lao động (BLLĐ) quy định: Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng. Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng. Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động và được người sử dụng lao động đồng ý, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 4 tháng. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH).
Căn cứ Điều 103 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2019, thủ tục hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau ốm đau do người sử dụng lao động chủ động thực hiện.
* Hồ sơ bao gồm: Danh sách đề nghị giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe theo Mẫu 01B-HSB do người sử dụng lao động tự lập (theo hướng dẫn tại Quyết định 166/QĐ-BHXH năm 2019).
* Thủ tục nhận tiền dưỡng sức sau ốm đau:
Bước 1: Người sử dụng lao động nộp hồ sơ cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Thời hạn: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau ốm đau.
Bước 2: Cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết hồ sơ và chi trả tiền dưỡng sức sau ốm đau.
Thời hạn giải quyết: Tối đa 06 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan bảo hiểm xã hội nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ.
Trên đây là những thông tin đáng chú ý về điều kiện nghỉ dưỡng sức sau ốm đau. Nếu vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 19006192 để được các chuyên gia pháp lý của LuatVietnam hỗ trợ giải đáp.
Thời gian nghỉ dưỡng sức sau ốm đau là từ 05 ngày đến 10 ngày trong một năm. Cụ thể, khoản 2 Điều 29 Luật Bảo hiểm xã hội quy định:
- Người lao động sức khoẻ chưa phục hồi sau thời gian ốm đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày: Được nghỉ tối đa 10 ngày/năm.
- Người lao động sức khoẻ chưa phục hồi sau thời gian ốm đau do phải phẫu thuật: Được nghỉ tối đa 07 ngày/năm.
- Các trường hợp khác được nghỉ 05 ngày/năm.
Số ngày nghỉ dưỡng sức sau ốm đau cụ thể do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa có công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định như sau:
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau ốm đau tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết và ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.
Người lao động đủ điều kiện nghỉ dưỡng sức sau ốm đau trong năm nào thì thời gian nghỉ việc hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được tính cho năm đó.
Việc xác định thời gian tối đa được hưởng chế độ dưỡng sức sau ốm đau được căn cứ theo lần nghỉ ốm đau cuối cùng trong năm trước khi nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe (ốm đau thuộc danh mục bệnh dài ngày hay ốm đau do phải phẫu thuật hay ốm đau khác).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, mức hưởng chế độ dưỡng sức sau ốm đau được quy định như sau:
Tiền chế độ dưỡng sức sau ốm đau = 30% x Mức lương cơ sở x Số ngày nghỉ
Số ngày nghỉ được xác định như sau:
- Người lao động mắc bệnh cần chữa trị dài ngày: Được nghỉ tối đa 10 ngày/năm.
- Người lao động nghỉ ốm do phải phẫu thuật: Được nghỉ tối đa 07 ngày/năm.
- Các trường hợp khác: Được nghỉ 05 ngày/năm.
Mức lương cơ sở hiện hành = 1,8 triệu đồng/tháng.
Theo đó, người lao động nghỉ dưỡng sức sau ốm đau có thể được trợ cấp từ 2,7 đến 5,4 triệu đồng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2019 và khoản 1 Điều 7 Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH, điều kiện nghỉ dưỡng sức sau ốm đau của người lao động bao gồm:
(1) Người lao động đang tham gia BHXH bắt buộc mà nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ đủ 30 ngày trở lên/năm (tính cả người lao động mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành).
(2) Người lao động trở lại làm việc mà trong 30 ngày đầu trở lại làm việc, sức khỏe vẫn chưa phục hồi.
- Mốc thời gian 30 ngày kể trên được tính theo ngày bình thường, không phải ngày làm việc.
- Nếu người lao động không nghỉ việc thì không được hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe (theo khoản 3 Điều 7 Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH).