Khủng Hoảng Tài Chính 2008

Khủng Hoảng Tài Chính 2008

Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai công cụ trọng yếu giữ vai trò quyết định trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững phụ thuộc rất nhiều vào việc hoạch định và thực thi các chính sách của một quốc gia trong khuôn khổ phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa các chính sách, nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Thành công trong việc chặn đứng lạm phát phi mã năm 1989 hay việc ngăn chặn cuộc đua lãi suất, đưa nền kinh tế dần thoát khỏi khủng hoảng thời gian gần đây đã cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô, nhằm đạt các mục tiêu ổn định thị trường. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ lạm phát cao, đồng thời, khả năng rơi vào khủng hoảng tài chính cũng không nhỏ, do đó, các công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được sử dụng với sự phối hợp nhịp nhàng là điều cần thiết. Tuy nhiên do 02 chính sách này chịu sự hoạch định của 02 cơ quan khác nhau là NHNN và BTC với chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu theo đuổi khác nhau trong ngắn hạn nên vẫn xảy ra tình trạnh phối hợp không đồng bộ giữa 02 chính sách này trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều này thể hiện chưa thống nhất, đồng bộ trong việc quản lý và phối hợp giữa các bộ ngành. Nếu thiếu sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nền kinh tế sẽ khó có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Vì vậy, phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhận thấy tầm quan trọng trong việc phối hợp đồng bộ của 02 CSTT và CSTK, nhóm chúng tôi đi vào tìm hiểu nội dung: Mối quan hệ giữa chính sách tài khoa và chính sách tiền tệ, thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng. Tiểu luận gồm 3 chương: Chương 1: Tầm quan trọng của sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa CSTK và CSTT trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chương 2: Sự phối hợp 2 chính sách tài khóa và tiền tệ trong nền kinh tế Việt Nam từ cuối năm 2007 đến nay. Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nâng cao hiệu quả của sự phối hợp 2 chính sách. Trang 4 Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK Nhóm 4 Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, bài tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn.

Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai công cụ trọng yếu giữ vai trò quyết định trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững phụ thuộc rất nhiều vào việc hoạch định và thực thi các chính sách của một quốc gia trong khuôn khổ phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa các chính sách, nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Thành công trong việc chặn đứng lạm phát phi mã năm 1989 hay việc ngăn chặn cuộc đua lãi suất, đưa nền kinh tế dần thoát khỏi khủng hoảng thời gian gần đây đã cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô, nhằm đạt các mục tiêu ổn định thị trường. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ lạm phát cao, đồng thời, khả năng rơi vào khủng hoảng tài chính cũng không nhỏ, do đó, các công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được sử dụng với sự phối hợp nhịp nhàng là điều cần thiết. Tuy nhiên do 02 chính sách này chịu sự hoạch định của 02 cơ quan khác nhau là NHNN và BTC với chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu theo đuổi khác nhau trong ngắn hạn nên vẫn xảy ra tình trạnh phối hợp không đồng bộ giữa 02 chính sách này trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều này thể hiện chưa thống nhất, đồng bộ trong việc quản lý và phối hợp giữa các bộ ngành. Nếu thiếu sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nền kinh tế sẽ khó có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Vì vậy, phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhận thấy tầm quan trọng trong việc phối hợp đồng bộ của 02 CSTT và CSTK, nhóm chúng tôi đi vào tìm hiểu nội dung: Mối quan hệ giữa chính sách tài khoa và chính sách tiền tệ, thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng. Tiểu luận gồm 3 chương: Chương 1: Tầm quan trọng của sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa CSTK và CSTT trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chương 2: Sự phối hợp 2 chính sách tài khóa và tiền tệ trong nền kinh tế Việt Nam từ cuối năm 2007 đến nay. Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nâng cao hiệu quả của sự phối hợp 2 chính sách. Trang 4 Mối quan hệ giữa CSTT & CSTK Nhóm 4 Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, bài tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn.

CƠN KHÁT NHÂN LỰC BÁN DẪN ĐẶC BIỆT CAO TẠI ĐÀI LOAN

Một báo cáo năm 2023 của nền tảng tìm kiếm việc làm lớn nhất Đài Loan, 104 Job Bank, cho biết số lượng tuyển dụng trung bình hàng tháng trong lĩnh vực chip vào quý 2/2023 là 23.000. Viện nghiên cứu Đài Loan cho biết, điều này xảy ra khi sản lượng của ngành bán dẫn Đài Loan dự kiến ​​đạt 4,17 nghìn tỷ Đài tệ (128 tỷ USD) vào năm 2024, tăng 13,6% so với năm trước, trong bối cảnh có những tiến bộ trong công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo tổng hợp.

“Nhu cầu về công nhân có kỹ năng tiếp tục tăng khi nhu cầu về chip tăng lên. Nhưng Đài Loan có thể phải đối mặt với sự chậm trễ trong sản xuất và đổi mới chip nếu lĩnh vực này không đáp ứng được nhu cầu lực lượng lao động của mình”, bà Zoey Hsu, chuyên gia bán dẫn tại công ty nghiên cứu công nghệ Counterpoint Research có trụ sở tại Đài Bắc, cho biết.

Cuộc cạnh tranh giành nhân tài trong ngành công nghiệp chip của Đài Loan là một phần của cuộc khủng hoảng toàn cầu.

Theo báo cáo năm 2022 của Deloitte, ngành bán dẫn ở Mỹ sẽ thiếu khoảng 70.000 đến 90.000 công nhân trong vài năm tới, trong khi Hàn Quốc cần 30.000 trong thập kỷ tới. Trong khi đó, Trung Quốc thiếu 300.000 chip ngay cả trước khi nhu cầu chip tăng đột biến hiện nay, báo cáo cho biết.

Một số nhà phân tích lập luận rằng vị thế là nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu của hòn đảo mang lại cho hòn đảo này một “lá chắn silicon” và bảo vệ hòn đảo này trước một số quốc gia.

Chuyên gia Zoey Hsu cho biết: “Sự thống trị của Đài Loan đối với ngành công nghiệp chip khiến ngành này trở nên rất quan trọng và do các vấn đề địa chính trị của Đài Loan, việc giải quyết tình trạng thiếu nhân tài trong lĩnh vực chip đòi hỏi cấp bách hơn”.

ĐÀI LOAN ĐẨY MẠNH CUNG CẤP HỌC BỔNG ĐỂ THU HÚT SINH VIÊN ĐÔNG NAM Á

Tăng cường tuyển dụng và đào tạo sinh viên quốc tế được coi là một phần của giải pháp lâu dài, trong đó sinh viên từ Đông Nam Á được coi là mục tiêu chính do dân số trẻ và ngày càng tăng của khu vực.

Điều này cũng phù hợp với Chính sách hướng Nam mới (NSP) của Chính phủ Đài Loan, được Tổng thống Thái Anh Văn đưa ra vào năm 2016, nhằm tìm cách tăng cường hợp tác với 18 quốc gia ở Đông Nam Á, Nam Á và Australia trong khi giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

Vào tháng 9/2023, Đài Bắc công bố kế hoạch đầu tư 5,2 tỷ Đài tệ (khoảng 160 triệu USD) trong 5 năm để tăng số lượng sinh viên quốc tế trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học.

Mục tiêu là tăng gần gấp ba tổng số sinh viên nước ngoài vào năm 2030 lên 320.000 và giữ 70% trong số họ làm việc tại Đài Loan sau khi tốt nghiệp, tăng từ tỷ lệ 40% hiện tại. Theo đó, họ cung cấp học bổng và trợ cấp hàng tháng cùng với cơ hội thực tập tại các nhà sản xuất chip hàng đầu, tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp xong, sinh viên phải làm việc ở Đài Loan trong hai năm sau khi lấy được bằng.

Trong số 116.038 sinh viên quốc tế theo học năm học 2023, có 71.012 sinh viên đến từ các quốc gia NSP, phần lớn đến từ Việt Nam (23,7%), tiếp theo là Indonesia (14,4%) và Malaysia (9%). Theo tờ The Straits Times, nguồn học bổng dồi dào và chi phí sinh hoạt tương đối phải chăng là một số lý do khiến hòn đảo này trở thành điểm đến du học phổ biến đối với các nước Đông Nam Á.

Giáo sư Lai Chih-huang, Phó chủ tịch Trường Nghiên cứu Chất bán dẫn của Đại học Quốc gia Tsing Hua, tin rằng việc thu hút sinh viên Đông Nam Á sẽ mang lại lợi ích chung cho Đài Loan và các quốc gia nơi họ đến. Điều này đặc biệt cần thiết khi các công ty bán dẫn Đài Loan cũng đang mở rộng dấu ấn ra nước ngoài tới các quốc gia như Malaysia, Việt Nam và Singapore.

“Khi những sinh viên này đến Đài Loan học tập, họ sẽ có tác động tích cực đến cả trường học và ngành công nghiệp. Sau một thời gian làm việc tại Đài Loan, các em cũng sẽ có cơ hội chuyển giao những gì đã học được về quê hương”, Giáo sư Lai Chih-huang cho biết.

Tuy nhiên, một cứu sinh tiến sĩ người Việt tại Đài Loan, lưu ý: “Bạn phải nói được tiếng phổ thông ở hầu hết các công ty ở đây. Rào cản ngôn ngữ có thể là một thách thức lớn”. “Ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam chưa phát triển. Đài Loan là nơi tốt nhất để tích lũy kinh nghiệm trong lĩnh vực này”, anh nói thêm.

Giáo sư Lee Jiun-haw, Phó chủ tịch phụ trách Quan hệ Quốc tế tại Đại học Quốc gia Đài Loan, cho biết: “Ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan có một hệ sinh thái không thể được nhân rộng ở nơi nào khác, vì vậy sinh viên quốc tế muốn đến đây và trở thành một phần trong đó”.

Nghề kế toán tại Mỹ đang đối mặt với cuộc khủng hoảng thiếu nhân lực khi nhiều người trẻ quay lưng với công việc này do định kiến về tính khô khan, nhàm chán và thu nhập thấp.

"Mức lương thấp, giờ làm việc dài và công việc nhàm chán". Đó là những gì Richard Rampell, kế toán đã nghỉ hưu ở Nam Florida (Mỹ), chia sẻ về nghề nghiệp của mình.

Hình ảnh những kế toán viên (CPA) khô khan, chỉ biết đến sổ sách và các loại thuế dường như đã trở thành định kiến khó phai trong tâm trí nhiều người.

Thống kê của Viện Kế toán Công chứng Hoa Kỳ (AICPA) cho thấy chỉ khoảng 65.000 sinh viên Mỹ hoàn thành bằng cử nhân hoặc thạc sĩ kế toán trong năm học 2021-2022, giảm 18% so với một thập kỷ trước. Trong số đó, rất ít người đủ điều kiện trở thành kế toán công chứng.

Số lượng người tham gia kỳ thi CPA năm 2022 cũng giảm mạnh, chỉ còn 30.000 người so với gần 50.000 người vào năm 2010.

Định kiến xã hội cùng với những khó khăn, thử thách trong công việc đã đẩy ngành kế toán Mỹ vào tình trạng thiếu hụt nhân sự trầm trọng, theo Business Insider.

Hậu quả không chỉ dừng lại ở việc chậm trễ hoàn thành tờ khai thuế, mà còn lan đến cả những sai sót tài chính nghiêm trọng trong các tập đoàn lớn.

Điển hình như trường hợp của Advance Auto Parts và Tupperware, các doanh nghiệp thiếu hụt nhân sự kế toán đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh.

"Tôi thường nói đùa rằng chẳng ai mơ ước trở thành kế toán khi còn bé", Amal Shehata, giáo sư kế toán tại ĐH New York (Mỹ), từng làm việc 10 năm tại PricewaterhouseCoopers, chia sẻ.

"Sự thật là nghề kế toán không hào nhoáng. Để có được những khách hàng tốt và thú vị, bạn phải mất ít nhất 5 đến 10 năm tích lũy kiến thức và kinh nghiệm", Richard Rampell, kế toán "lão làng" với 45 năm kinh nghiệm, chia sẻ thêm.

Hình ảnh một kế toán viên tẻ nhạt, suốt ngày vùi đầu trong văn phòng đã ăn sâu vào tâm trí nhiều người.

Kế toán chưa bao giờ được xem là một nghề nghiệp hấp dẫn. Giới trẻ ngày nay, đặc biệt là Gen Z, càng không muốn theo đuổi những công việc nhàm chán, thiếu sự đột phá. Hơn nữa, trong thời đại mạng xã hội lên ngôi, kế toán kế toán không phải là một nghề dễ dàng "khoe" trên Instagram.

Không chỉ thiếu sức hút, con đường trở thành kế toán cũng đầy gian nan.

Ứng viên CPA thường cần có bằng thạc sĩ kế toán để đáp ứng yêu cầu 150 giờ tín chỉ. Sau đó là kỳ thi CPA khắc nghiệt, bao gồm 4 bài kiểm tra kéo dài 4 giờ, phải vượt qua trong vòng 18 tháng. Chưa dừng lại ở đó, các ứng viên còn phải dành 1 năm làm việc dưới sự giám sát của một CPA có giấy phép trước khi chính thức nhận được danh hiệu.

Trong khi các chuyên viên ngân hàng đầu tư mới vào nghề có thể kiếm được hơn 100.000 USD/năm, kế toán viên mới ra trường dự kiến chỉ kiếm được 72.000 USD trong năm đầu tiên nếu làm tại các công ty kế toán công lớn nhất.

Rampell cảnh báo về "vòng xoáy luẩn quẩn" nếu tình trạng lương thấp trong ngành kế toán không được cải thiện. Ít kế toán đồng nghĩa với việc những người còn lại phải gánh vác khối lượng công việc lớn hơn, dẫn đến nguy cơ họ kiệt sức, rời bỏ ngành vì áp lực công việc và thu nhập không tương xứng.

"Doanh nghiệp cần nâng lương lên nhiều, trả ngang bằng với các công ty ngân hàng đầu tư", ông đề xuất.

Giới trẻ ngày nay, đặc biệt là Gen Z, càng không muốn theo đuổi những công việc nhàm chán như kế toán.

Rampell tin rằng miễn là nhu cầu về dịch vụ kế toán, kiểm toán và lập báo cáo tài chính vẫn còn, sẽ luôn có người sẵn sàng làm công việc này nếu được trả công xứng đáng. Là người điều hành một công ty CPA trong nhiều thập kỷ, ông khẳng định việc trả lương cao hơn đối thủ cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích.

"Tôi có được những nhân viên năng suất hơn, thông minh hơn, chăm chỉ hơn, những người tham vọng và muốn tiến xa hơn thay vì chỉ làm việc hành chính từ 9h đến 17h", ông nói.

Một số công ty lớn như PwC cũng đã có động thái tăng lương khởi điểm và thưởng dựa trên hiệu suất để giữ chân nhân tài.

Giáo sư Shehata hy vọng các cựu sinh viên thành đạt sẽ hỗ trợ học bổng, giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho sinh viên theo đuổi ngành kế toán. Bên cạnh đó, việc cải tổ môn "Nguyên lý Kế toán" cũng được xem là giải pháp then chốt.

Báo cáo dài 88 trang về "giải pháp nhân tài", được National Pipeline Advisory Group công bố vào tháng 5, đề xuất tận dụng giảng viên giỏi, ứng dụng công nghệ và tạo cơ hội cho sinh viên tiếp xúc với các kế toán viên thực tế, qua đó tăng tính tương tác và truyền cảm hứng.

Ứng viên CPA cần có bằng thạc sĩ, vượt qua kỳ thi khắc nghiệt và thực tập một năm.

Đồng thời, việc giảm yêu cầu 150 giờ tín chỉ và tạo điều kiện cho sinh viên học tập thông qua trải nghiệm thực tế cũng là một giải pháp khả thi.

Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi những thay đổi này phát huy tác dụng, tình trạng thiếu hụt kế toán sẽ tiếp tục gây ra nhiều khó khăn. Rampell ví von tình trạng này giống như việc khó đặt lịch hẹn với bác sĩ do quá tải.

Giáo sư Shehata cũng cảnh báo về những tổn thất tiềm ẩn khi thiếu thông tin kế toán đáng tin cậy. Điều này có thể dẫn đến những quyết định sai lầm, làm suy giảm niềm tin vào thị trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Niềm vui và nỗi buồn của công việc

Tập truyện ngắn của nữ tác giả Jang Ryu Jin mang đến cái nhìn khác về cuộc sống của tầng lớp thanh niên ở Hàn Quốc. Chúng ta thường quen với hình ảnh những nam thanh nữ tú, chỉn chu trong bộ trang phục công sở, làm việc trong những cao ốc văn phòng sang trọng. Thực tế, áp lực công việc và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, khiến nhiều người trẻ không còn thiết tha với tình yêu, chuyện kết hôn hay sinh con. Các nhân vật của Jang Ryu Jin đều là những thanh niên bình thường mà người ta có thể gặp ở bất cứ đâu. Mỗi câu chuyện là một mảng màu sáng-tối đan xen, tạo nên bức tranh đa chiều về những khó khăn của người trẻ trong xã hội hiện đại.