Download.vn sẽ cung cấp bài Tập làm văn lớp 2: Viết 4 - 5 câu giới thiệu về quê hương em hoặc nơi em ở.
Download.vn sẽ cung cấp bài Tập làm văn lớp 2: Viết 4 - 5 câu giới thiệu về quê hương em hoặc nơi em ở.
Em sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Thành phố là thủ đô của đất nước Việt Nam. Hà Nội mang vẻ đẹp hiện đại mà cổ kính. Nhiều tòa nhà cao tầng mọc san sát. Các con đường rộng lớn. Hai bên đường là những cửa hàng. Hà Nội còn có rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như hồ Gươm, chùa Một Cột, phố cổ Hà Nội… Em rất yêu quê hương của mình.
Thành phố Đà Nẵng là nơi em sinh sống. Nơi đây có nhiều điểm du lịch nổi tiếng. Đặc biệt, Mỹ Khê là một trong những bãi biển đẹp nhất hành tinh. Thành phố còn có nhiều cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Hàn. Ẩm thực của Đà Nẵng cũng rất hấp dẫn. Con người thân thiện, hiểu khách. Em rất yêu thích nơi này.
Quê hương của em là ở thành phố Nha Trang. Thành phố rất xinh đẹp. Những tòa nhà cao tầng. Những bãi biển trong xanh. Con người thì hiếu khách. Ẩm thực cũng phong phú. Em rất yêu mến và tự hào về quê hương của mình.
Em sinh ra và lớn lên ở tỉnh Nghệ An. Nơi đây là một tỉnh ở miền Trung. Dòng sông Lam hiền hòa. Hai bên bờ sông là những xóm làng yên bình. Những cánh đồng lúa rộng mênh mông. Phía xa, dãy núi Hồng Lĩnh hùng vĩ. Em rất tự hào về quê hương của mình.
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam. Nơi đây có nhiều nhiều điểm tham quan nổi tiếng như Gươm, tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, chùa Một Cột, Hoàng Thành Thăng Long. Con người Hà Nội thanh lịch, hiểu khách. Ẩm thực phong phú với nhiều đặc sản như bún chả, bánh mì, phở… Em rất yêu mến thành phố này.
Quê hương của em là thành phố Hồ Chí Minh. Nơi này còn được gọi là Sài Gòn. Thành phố rất xinh đẹp. Những tòa nhà cao tầng. Những con đường đông đúc. Ẩm thực hấp dẫn và phong phú. Con người cũng thân thiện, mến khách. Em rất tự hào về quê hương.
Hà Nội là thủ đô của đất nước Việt Nam. Nơi đây là một thành phố xinh đẹp. Đến với trung tâm thành phố, bạn sẽ thấy nhiều căn nhà cao tầng hiện đại. Đường phố và các cửa hàng lúc nào cũng tấp nập, đông đúc. Ngoài ra, Hà Nội còn có nhiều nhiều điểm tham quan nổi tiếng như Gươm, tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, chùa Một Cột, Hoàng Thành Thăng Long. Các món ăn nổi tiếng ở đây như bún chả, bánh mì, phở… Con người Hà Nội vừa mến khách lại thân thiện. Tôi rất yêu mến thành phố này.
Thành phố Đà Nẵng là quê hương của em. Nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp. Những tòa nhà cao tầng. Nhiều con đường hiện đại. Mỹ Khê là một trong những bãi biển đẹp nhất hành tinh. Thành phố còn có nhiều cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Hàn. Nhưng em thích nhất là cầu Rồng. Cây cầu có thể phun nước và lửa vào mỗi tối cuối tuần. Ẩm thực của Đà Nẵng cũng rất hấp dẫn. Con người sống chan hòa, thân thiện. Em rất tự hào về quê hương của mình.
Em sinh ra và lớn lên ở Nha Trang. Đây là một tỉnh ở vùng đồng bằng duyên hải miền Trung. Nơi đây có bãi biển Nha Trang tuyệt đẹp. Nước biển trong xanh, tươi mát. Bãi cát vàng trải dài trong ánh nắng. Những hàng dừa xanh tươi. Hằng năm, rất nhiều khách du lịch đến đây để nghỉ mát. Em rất tự hào về quê hương của mình.
Quê hương của em ở Nghệ An. Nơi đây có dòng sông Lam hiền hòa. Bên bờ sông là những xóm làng. Cánh đồng lúa rộng mênh mông. Phía xa, dãy núi Hồng Lĩnh giống như một bức tường bảo vệ xóm làng. Con người nơi đây rất hiền lành, chăm chỉ. Em rất yêu quê hương của mình.
Gia đình của em sống ở Nha Trang. Nơi đây có rất nhiều địa điểm du lịch. Nổi tiếng nhất là bãi biển Nha Trang. Nước biển trong xanh, tươi mát. Bãi cát vàng trải dài trong ánh nắng. Hằng năm, có rất nhiều khách du lịch đến đây để nghỉ mát. Nghỉ hè, bố mẹ lại cho em ra biển nghỉ mát. Em rất yêu nơi đây.
Em sinh ra và lớn lên ở thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây vô cùng nhộn nhịp và sầm uất. Nhiều tòa nhà cao tầng mọc lên san sát. Các con đường luôn đông đúc phương tiện giao thông. Hai bên đường có nhiều cửa hàng. Các khu trung tâm thương mại, siêu thị cũng rất nhiều. Con người sống đơn giản, phóng khoáng. Em rất yêu mến thành phố này.
Em sinh ra và lớn lên ở ngoại thành của Hà Nội. Nơi đây rất thanh bình và thơ mộng. Ông mặt trời thức dậy sau lũy tre làng. Tiếng gà gáy báo sáng vang vọng từ xa. Làn gió khẽ lướt qua khiến những cành lá rung rinh. Bầu trời lúc này trong xanh, không một gợn mây. Cánh đồng lúa chín vàng mênh mông. Vài chú chim nhỏ cất tiếng hót đón chào ngày mới. Các bác nông dân đã ra đồng từ sáng sớm. Em rất yêu quê hương của mình.
Em đang ở thành phố Đà Nẵng. Nơi đây là một thành phố hiện đại. Nhiều tòa nhà cao tầng. Các con đường rộng lớn. Xe cộ đi lại đông đúc. Thành phố có nhiều cây cầu nổi tiếng như: cầu Rồng, cầu Thuận Phước, cầu quay sông Hàn, cầu Tình Yêu,... Đặc biệt, bãi biển Mỹ Khê là một điểm du lịch rất nổi tiếng. Em rất yêu mến và tự hào về quê hương của mình.
Em đang sống là thành phố Hà Nội. Nơi đây là thủ đô của nước Việt Nam. Hà Nội có rất nhiều tòa nhà cao tầng. Các con đường đông đúc phương tiện giao thông. Nơi đây còn có rất nhiều thắng cảnh nổi tiếng như hồ Gươm, chùa Một Cột, phố cổ Hà Nội. Con người Hà Nội rất thân thiện, mến khách. Một số đặc sản của Hà Nội như phở, bún chả, cốm,... Em rất yêu thành phố này.
Em sinh ra và lớn lên ở Cần Thơ. Nơi đây là một tỉnh miền Tây sông nước. Con người ở đây có tính tình hào sảng. Vào mùa nước nổi, người dân thường họp chợ trên sông. Người ta vẫn gọi là các khu chợ nổi. Những chiếc thuyền bán đủ các mặt hàng. Nhiều người mua bán rất sôi nổi. Em yêu sao mảnh đất quê hương này.
Em sinh ra ở thành phố Nha Trang. Nơi đây rộng lớn, hiện đại. Thành phố còn có nhiều địa điểm du lịch. Nhưng nổi tiếng nhất là bãi biển Nha Trang. Mỗi năm, nhiều khách du lịch ghé thăm. Con người ở đây thân thiện, nhiệt tình lắm. Em mong muốn quê hương của mình ngày càng phát triển.
Quê hương của Nguyễn Đình Chiểu
Lăng cụ Đồ Chiểu nhìn từ ngoài vào
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Tuy không sinh ra và lớn lên ở Bến Tre, nhưng hơn 1/4 thế kỷ Nguyễn Đình Chiểu đã sống, lao động cần mẫn và gắn bó với quê hương Bến Tre này.
Chúng tôi xuôi về vùng đất Ba Tri của “xứ dừa” Bến Tre tìm đến cố hương của nhà thơ yêu nước, bậc lương sư, lương y Nguyễn Đình Chiểu. Từ thị xã Bến Tre theo tỉnh lộ 26 về Ba Tri khoảng 35km, hai bên đường là bạt ngàn những rừng dừa xanh ngút mắt. Nằm ở thế giao nhau của hai con sông Hàm Luông và Ba Lai, đất đai trù phú nhờ phù sa bồi đắp, Ba Tri hiện ra với những cánh đồng lúa trải dài xen lẫn những vườn dừa, vườn sơ ri trên những giồng đất cao, khô ráo. Là vùng đất ven biển có cửa sông lớn Hàm Luông, Ba Tri từ lâu đã có quan hệ thông thương với bên ngoài. Thị trấn Ba Tri đông vui, náo nhiệt, bởi nơi đây là đầu mối giao lưu, mua bán, trung chuyển hàng nông, thủy hải sản... Nhìn địa thế, có thể biết rằng không phải ngẫu nhiên mà hơn 100 năm trước Nguyễn Đình Chiểu chọn Ba Tri làm nơi “tỵ địa” (lánh nạn), làm chốn tụ hội bàn việc đại sự với những danh tướng, danh sĩ như Trương Định, Hồ Huân Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị… Nơi đây là quê hương của Phan Thanh Giản - Tiến sĩ đầu tiên của đất Gia Định, Sương Nguyệt Anh-người phụ nữ đầu tiên làm chủ bút một tờ báo, cùng nhiều nhân vật anh hùng khác như Phan Tòng, Tán Kế Lê Quang Quan…Ba Tri cũng được chọn làm nơi an táng Sùng Đức xử sĩ Võ Trường Toản - bậc danh sư của Nam Kỳ Lục tỉnh khi quân Pháp chiếm Gia Định (1862). Từ chàng nho sinh thời loạn… Nguyễn Đình Chiểu không phải người gốc ở Bến Tre. Thân phụ ông là Nguyễn Đình Huy, hiệu Dương Minh Phủ, vốn quê ở làng Bồ Điền, tổng Phù Ninh, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc huyện Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).
Di ảnh Nguyễn Đình Chiểu qua phóng họa
Khoảng năm 1820, ông Huy làm chức Thư lại trong ty Văn hàn, dưới quyền của Tả quân, Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Ở Huế, ông đã có vợ và hai con là Nguyễn Đình Lân và Nguyễn Thị Thu. Trong Nam, ông lấy thứ thiếp là Trương Thị Thiệt, người phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu tự là Mạnh Trạch hiệu là Trọng Phủ hay Hối Trai, ra đời tại làng Tân Thới, tổng Bình Trị Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (quận 1, TP.HCM ngày nay). Ông là con trưởng, tiếp sau có các em là Nguyễn Thị Thục, Nguyễn Thị Nữ, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Đình Tựu, Nguyễn Đình Tự, Nguyễn Đình Huân. Năm Nguyễn Đình Chiểu 12 tuổi thì xảy ra “Sự biến thành Phiên An” hay nạn “giặc Khôi”. Sau khi Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng bãi bỏ chức Tổng trấn, chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh và đưa Bạch Xuân Nguyên vào làm Bố chánh đầu tiên của tỉnh Gia Định, phụng chỉ xét lại vụ án Lê Văn Duyệt, bắt giam con nuôi là Lê Văn Khôi, lúc ấy đang giữ chức quan võ Vệ úy. Đêm 18/5/1833, sau khi đã ngầm liên lạc với bên ngoài, sắp đặt khởi nghĩa, Lê Văn Khôi cùng 27 quân tâm phúc phá ngục thoát ra, chỉ huy binh lính cũ nổi dậy. Bạch Xuân Nguyên bị bắt và quấn thành bó đuốc tẩm dầu thiêu sống làm lễ tế Lê Văn Duyệt. Quân khởi nghĩa chiếm thành Gia Định rồi lần lượt chiếm cả lục tỉnh chỉ trong 1 tháng. Lê Văn Khôi xưng là Bình Nam Đại nguyên soái, liên kết với quân Xiêm chống lại triều Nguyễn. Mãi đến ngày 17/7/1835, sau khi Khôi chết vì bệnh phù thũng, quân triều đình do Tống Phúc Lương, Trương Minh Giảng… chỉ huy mới phá được thành Phiên An, dẹp yên cuộc khởi nghĩa. Do biến loạn của cuộc nổi dậy này, Nguyễn Đình Huy bỏ Gia Định trốn về kinh thành Huế và bị cách hết chức tước. Sau đó, ông cải trang trở vào Nam đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế, gửi ở nhà một người bạn thân để con tiếp tục việc học hành. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế, chăm chỉ dùi mài kinh sử suốt 8 năm. Năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu trở vào Gia Định ôn luyện để đi thi. Năm Quý Mão (1843), Nguyễn Đình Chiểu đậu tú tài tại trường thi Gia Định, được một gia đình phú hào họ Võ hứa gả con cho. Lẽ ra đậu cử nhân mới được đi thi Hội, nhưng vì lúc này triều đình muốn lấy lòng nhân sĩ Nam Kỳ nên đặc cách cho những sĩ tử đậu tú tài được ứng Hội thí. Năm Bính Ngọ (1846), Nguyễn Đình Chiểu cùng em là Nguyễn Đình Tựu ra Huế học để chuẩn bị kỳ thi Hội năm Kỷ Dậu (1849) nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất vào tháng 11/1848, an táng tại Tân Triêm (nay là Cầu Kho, TPHCM). Ông đành bỏ thi cùng em trở về Nam thọ tang mẹ. Sau này trong “Lục Vân Tiên”, ông có nói qua lời của tôn sư đoán vận:
“Số con hai chữ khoa kỳ/Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm lòa/Hiềm vì ngựa chạy đàng xa/Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan”. Thỏ tức năm Mão, năm ông đậu tú tài; gà tức năm Dậu, năm ông phải bỏ thi Hội. Đúng là “Dùi mài kinh sử, chí rắp những toan làm sáng đạo thánh hiền/Lở dở đại khoa, ngộ biến tòng quyền đành về quê phục hiếu”, đến nay trên văn bia Nguyễn Đình Chiểu vẫn còn ghi chép những dòng như thế. Trên đường hồi hương về Nam, do không thuận gió xuôi thuyền, Nguyễn Đình Chiểu cùng em phải đi đường bộ, băng rừng lội suối. Phần vất vả vì đường sá xa xôi, phần vì thương khóc mẹ nên Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng, được đưa đến một thầy thuốc giỏi vốn dòng ngự y ở Quảng Nam chạy chữa nhưng vô hiệu. Trong thời gian chữa bệnh, Nguyễn Đình Chiểu được thầy truyền nghề thuốc cho. “Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân”, về đến Gia Định, thân đã mù lòa, cảnh nhà sa sút, lại thêm nhà họ Võ bội ước, ông đóng cửa cư tang mẹ, đến năm 1851 mới mở trường dạy học, học trò theo rất đông. Ngoài ra ông còn làm thuốc chữa bệnh giúp dân, nghiên cứu y học, sáng tác thơ văn, tiếng ông “Đồ Chiểu” vang xa dần. Khi sáng tác xong tác phẩm “Ngư tiều y thuật vấn đáp” (Hỏi đáp về nghề thuốc của Ngư và Tiều) gồm 3.642 câu lục bát và 21 bài thơ, Nguyễn Đình Chiểu đưa cho người bạn là Lê Quang Thinh đọc, ông Thinh lại cho ông Lê Tăng Quýnh đọc. Ông Quýnh lúc ấy là cai tổng Thanh Ba, Cần Giuộc, tỉnh Long An, khi đọc xong thì vô cùng khâm phục. Sau nhiều lần gặp gỡ, ông Quýnh càng quý trọng tài năng và đức độ của thầy Đồ Chiểu nên thuyết phục gia đình gả em gái mình là Lê Thị Điền cho thầy. Năm 1854, thầy Nguyễn Đình Chiểu và bà Lê Thị Điền kết duyên chồng vợ. Trong thời gian này, ông sáng tác truyện thơ “Lục Vân Tiên” vừa như là một tự truyện, gửi gắm lý tưởng đẹp đẽ của mình:
“Làm trai trong cõi thế gian/Phò đời giúp nước phơi gan anh hào”, vừa “ném ra giữa cuộc đời cả một loạt nhân vật: Nguyệt Nga, Vân Tiên, Tiểu đồng, Hớn Minh, Tử Trực…có thể nói là cả một đội quân bừng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” – theo nhà nghiên cứu Hoài Thanh. Giữa thời buổi mà “Hơi chính nghìn năm về cụm núi/Thói tà bốn bể động vùng mây”, đạo lý xã hội trên nền tảng Khổng giáo bị đảo lộn, “Lục Vân Tiên” đã kịp thời thức tỉnh với những bài học đạo đức về tình thầy trò, cha con, chồng vợ, về nghĩa vua tôi, bạn bè…bằng lối “kể thơ” trong sáng, dễ hiểu nên nhanh chóng đi sâu vào tâm hồn người dân Nam bộ. Nhiều câu thơ trong “Lục Vân Tiên” đã trở thành câu cửa miệng của người dân.
Sức lan tỏa của “Lục Vân Tiên”rất lớn. Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông, năm 1864 thực dân Pháp đã cho Aubaret dịch truyện này ra tiếng Pháp và năm sau 1865, Tôn Thọ Tường cho in ra bản chữ nôm. “Giết giặc bằng ngòi bút” Năm 1858, giặc Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng, năm 1859 đánh chiếm Gia Định. Tuy mù lòa, Đồ Chiểu vẫn “thấy” rất rõ cảnh tang thương của miền đất bị ngoại xâm đánh phá: “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy/Mất ổ bầy chim dáo dác bay/Bến Nghé của tiền tan bọt nước/Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây” - ông viết trong bài thơ Chạy giặc. Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình phải lánh về quê vợ ở Cần Giuộc, sống chung nhà người anh vợ, sau đó dời về chùa Tân Thạnh. Sau khi chiếm được thành Gia Định, quân Pháp do phó Đô đốc Bonard chỉ huy đã mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công… Ngày 14/12/1861 (rằm tháng 11), những nghĩa sĩ nông dân vì căm thù quân giặc đã dũng cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc khiến quân Pháp bị thiệt hại nặng nề, giết được nhiều lính và viên tri huyện người Việt đang làm cho Pháp. Bên ta khoảng 15 nghĩa sĩ (có tài liệu nói 27) hy sinh. Xúc động trước tấm gương hy sinh vì nước của các nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” bằng chữ Nôm gồm 60 vế biền ngẫu theo thể phú luật Đường để đọc trong buổi truy điệu. Với giọng văn trầm hùng, bi thiết; ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, bài văn tế đã gây chấn động nhân tâm, tạo sức cổ vũ rất lớn. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người nông dân được ca ngợi như những anh hùng. Bài “Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh” của Nguyễn Đình Chiểu cũng lan truyền rất rộng rãi. Khi những bài văn tế được truyền ra Huế, chính vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến trong các địa phương. Nhà thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, con thứ 10 vua Minh Mạng, đã xúc động viết trong bài “Đọc bài văn ông Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân chết vì nước”, Lê Thước là người dịch có đoạn: “Lại đọc thơ ông điếu chiến trường/Tin về dồn dập giặc biên cương/Tiếng văn nôm giỏi tày Manh Tả/Khúc quỷ hùng thương giống Khuất Bường/Gươm gỗ, giáo sào gương dũng cảm/Vượn kêu, hạc oán nỗi đau thương/Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút/Báo nước ngần này cũng đáng thương”. Còn Mai Am nữ sĩ, tức công chúa Lại Đức, em gái Miên Thẩm , xúc cảm viết: “Bồi hồi đọc mãi bản văn ai/Phách cứng, văn hùng, cảm động thay/Dân chúng Cần Vương vì ghét địch/Nhà nho lâm trận tiếc không tài…”. Năm 1862, khi 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay Pháp, quyết không ở trong vùng chiếm đóng của giặc, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là Ba Tri, Bến Tre). Tại đây ông vẫn tiếp tục dạy học, bốc thuốc, sáng tác thơ văn và giữ mối quan hệ với các lực lượng kháng chiến, sĩ phu yêu nước như Trương Định, Đốc binh Là, Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông… Em trai út của Nguyễn Đình Chiểu là chí sĩ yêu nước Nguyễn Đình Huân cũng tham gia các nhóm nghĩa quân, tích cực hoạt động kháng Pháp cứu nước. Năm 1863 trong hàng ngũ Đốc binh Là, ông Huân đã anh dũng hi sinh trong trận đánh ở Cần Giuộc, Long An, hưởng dương 22 tuổi. Nguyễn Đình Chiểu và Trương Định có mối quan hệ gắn bó. Giai thoại kể rằng khi họ Trương được thăng chức Lãnh binh nhưng bị buộc phải bãi binh ở Gò Công, về An Giang nhậm chức.
Trương Định đến gặp cụ Đồ Chiểu, hỏi rằng: “Nay thánh chỉ đòi tôi giải binh đầu Pháp, theo ông thì nên xử sự thế nào?”. Đồ Chiểu chỉ tay ra hàng dừa trước ngõ hỏi lại “Cái cây tươi tốt là nhờ cái gốc hay cái ngọn?”, Trương Định đáp “Lẽ đời xưa nay cây tươi tốt là nhờ gốc, gốc bền thì cây vững”, cụ Đồ nói: “Đúng vậy, nhưng biết cái gốc ở đâu mà theo mới là người có mắt tinh tường”. Trương Định hiểu ngay liền nói “Cái gốc ngay ở đây, trong thôn xóm thường dân này. Một ngày lòng dân còn thì một ngày quốc thổ còn!”. Và rồi ông quyết định chống lệnh bãi binh, cùng dân chúng Gò Công khởi binh kháng Pháp, xưng làm “Bình Tây Đại nguyên soái”, liên tục gây cho giặc nhiều thất bại nặng nề. Tháng 8/1864, khi tướng quân Trương Định tuẫn tiết, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn làm bài “Văn tế Trương Công Định” và 12 bài thơ điếu liên hoàn. Với quan niệm “Sinh vi tướng, tử vi thần” (tức “sống làm tướng, chết làm thần”), Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng và đánh giá rất cao tài năng của Trương tướng quân: “Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè/Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái/Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình tây/Nay thác theo thần, xin dâng hộ một câu phúc thái”. Năm 1868, nghĩa sĩ Phan Tòng quê Bình Đông, Ba Tri, tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh Giản), bị tử trận tại Giồng Gạch, cách chợ Ba Tri 2km, cụ Đồ Chiểu đã xót thương viết 10 bài thơ liên hoàn “điếu Phan Công Tòng” thật cảm động. “Ba Tri từ vắng tiếng hơi chàng/Gió thảm mưa sầu khá xiết than/Vườn luống trông xuân, hoa ủ dột/Ruộng riêng buồn chủ, lúa khô khan…” Uy tín, danh tiếng của Đồ Chiểu trong giới sĩ phu và dân chúng Nam bộ ngày càng lớn, thực dân Pháp tìm cách mua chuộc ông. Viên Tham biện tỉnh Bến Tre là Michel Ponchon cùng thông dịch viên Lê Quang Hiền đến thăm, tỏ ý ưu ái muốn trả lại ruộng đất ở Gia Định cho cụ, Đồ Chiểu đã trả lời nhẹ nhàng mà đanh thép “Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”. Ponchon ngỏ ý cấp tiền dưỡng lão, Đồ Chiểu kiên quyết từ chối: “Tôi đã sống tạm đủ giữa tình thương của môn đệ và xóm giềng, thế cũng đã toại nguyện”. Hắn lại đề nghị Đồ Chiểu sửa lại cuốn Lục Vân Tiên mà bọn chúng đã xuất bản, ông khẳng khái không làm… Đối với Tôn Thọ Tường, dù quen biết nhưng cam tâm theo Pháp, cụ Đồ cũng thẳng thắn lên án. Cụ nói với Phan Văn Trị rằng: “Chỉ có người Nam mình mới thích ăn mắm sống, chớ thằng đó theo Tây đâu có thích ăn”. Giữa thời ly loạn, tối tăm, khí tiết của người chí sĩ lại càng rạng rỡ “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt/Lòng đạo xin tròn một tấm gương” Nguyễn Đình Chiểu sống qua 3 triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức với biết bao biến động của lịch sử. Ông luôn mong mỏi một “Ngày nào trời đất an ngôi cũ/Mừng thấy non sông bặt gió Tây” nhưng càng ngày càng thêm đau buồn vì đất nước từng mảnh rơi dần vào tay giặc, khởi nghĩa từng trận bị dập tắt. Năm 1885, ông đặt niềm tin vào chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, nhưng rồi các cuộc nổi dậy lần lượt thất bại. Ngày 3/7/1888, Nguyễn Đình Chiểu trút hơi thở cuối cùng. Cả Ba Tri tiễn đưa cụ, từ chợ Ba Tri lên Giồng Chuối cả cánh đồng phủ trắng khăn tang, đám học trò của cụ đều mặc đại tang.